TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người và trở thành xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hội nhập quốc tế không chỉ mang lại nhiều thời cơ, thuận lợi, mà còn đặt các quốc gia trước những thách thức cạnh tranh và phát triển. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hội nhập quốc tế ở Việt Nam, trước hết, cần phải đánh giá tác động của hội nhập quốc tế đối với quá trình đổi mới chính trị.
Từ khóa: Hội nhập quốc tế; tác động; quá trình đổi mới chính trị
1. Những đặc điểm của hội nhập quốc tế
Theo cách hiểu thông thường hội nhập quốc tế (HNQT) là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, được xem như là quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Theo nghĩa rộng HNQT là tiến trình các nước chủ động tăng cường các hoạt động gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ chung về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế [1]. Từ những cách tiếp cận này, có thể khái quát về HNQT với những đặc điểm sau:
Một là, HNQT là một quá trình phát triển của xã hội. Quá trình này là kết quả của sự mở rộng giao lưu hợp tác không ngừng của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực nhờ những thành tựu phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của quá trình phân công lao động và chuyên môn hóa ngày càng cao trong nền sản xuất toàn cầu.
Hai là, HNQT là một quy luật xã hội, buộc các quốc gia phải liên kết, liên minh vào các mối quan hệ quốc tế, thiết lập và hình thành các tổ chức quốc tế nhằm đạt được những mục tiêu phát triển và lợi ích của từng quốc gia.
Ba là, HNQT diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm: kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội... hoặc đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất, quy mô, phạm vi và hình thức khác nhau. Bao gồm:
- Hội nhập chính trị là quá trình các nước gia nhập và tham gia tự nguyện vào các tổ chức chính trị nào đó có thể là đa phương hoặc song phương dựa trên các nguyên tắc, luật chơi chung thống nhất nhằm chia sẻ lợi ích, nguồn lực, quyền lợi, mục tiêu phát triển chung về chính trị và quyền lực của mỗi quốc gia thành viên[2]. Các quốc gia tiến hành hội nhập chính trị thông qua cơ chế đàm phán, ký hiệp ước, thiết lập các mối liên kết chung có quy mô trong khu vực hoặc trên toàn cầu theo các mức độ hợp tác khác nhau (quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược lĩnh vực). Ví dụ: ASEAN, EU, Liên hiệp quốc, quan hệ Việt - Lào, Quan hệ Việt - Nga, Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ…
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia tự nguyện tham gia, gắn kết nền kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa kinh tế (thương mại, tài chính, dịch vụ…), xóa bỏ các rào cản, giảm thiểu sự khác biệt và trở thành bộ phận của nền kinh tế toàn cầu nhằm tranh thủ các nhân tố và điều kiện cho phát triển theo những mục tiêu, lộ trình, cách thức hội nhập cụ thể ở những phạm vi (khu vực, toàn cầu), cấp độ khác nhau (song phương, đa phương) dựa trên điều kiện thực tế của từng quốc gia [3]. Ví dụ: WTO, Cộng đồng kinh tế ASEAN, FTA, TPP, APEC, ASEM, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản, Liên minh thuế quan CU…
- Hội nhập an ninh -quốc phòng là sự tham gia của một quốc gia vào khối liên minh quân sự quốc phòng với các quốc gia khác trong khu vực hoặc trên thế giới nhằm mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh [4]. Ví du: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương - NATO, Tổ chức hợp tác Thượng Hải - SCO, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á - SEATO…
- Hội nhập về văn hóa - xã hội là quá trình các quốc gia tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội… hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa - xã hội rộng lớn trên phạm vi khu vực và toàn cầu [5]. Ví dụ: Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, UNESCO, WHO, UNICEF, UNDP…
Ở Việt Nam quá trình HNQT đã bắt đầu từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc năm 1976. Tuy nhiên, phải đến khi tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986 tại Đại hội VI của Đảng thì quan điểm về HNQT mới được khởi xướng. Đến Đại hội IX, HNQT mới được Đảng cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27 tháng 11 năm 2001 “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” và ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Từ Đại hội XI đến nay, quan điểm về HNQT được Đảng ta nhất thể hóa trong Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10 tháng 04 năm 2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Cụ thể, mục tiêu HNQT của Việt Nam là nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [6].
2. Tác động của hội nhập quốc tế đối với quá trình đổi mới chính trị
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả to lớn, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội, nâng cao vị thế quốc gia và đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển toàn diện. Trong bối cảnh thế giới ngày càng gia tăng xu thế HNQT theo chiều hướng sâu rộng như hiện nay đã tác động rất lớn đến quá trình hội nhập và đổi mới nói chung ở Việt Nam cũng như quá trình đổi mới chính trị nói riêng. Phát biểu trong bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng, Nhà nước mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Do vậy, muốn đổi mới toàn diện hệ thống chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời đại mới, bắt buộc Việt Nam cũng phải HNQT mạnh mẽ thì quá trình đổi mới chính trị mới diễn ra nhanh, đồng bộ và thu được kết quả. HNQT chính là tác nhân mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt chính trị của một quốc gia, ngược lại muốn quá trình HNQT ngày càng sâu rộng hơn thì tất yếu quốc gia đó phải đổi mới tư duy chính trị. Từ góc độ triết học, đó là mối quan hệ biện chứng không tách rời nhau, tác động và bổ trợ cho nhau. Đánh giá tác động của HNQT đối với quá trình đổi mới chính trị ở Việt Nam thể hiện như sau:
a. Những kết quả đạt được
Dưới tác động của quá trình HNQT, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới chính trị, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; năng lực cạnh tranh quốc gia và của các doanh nghiệp được nâng lên; mở rộng thị trường, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực của đội ngũ cán bộ từ trung ương đến địa phương được nâng lên rõ rệt; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và các hoạt động đối ngoại khác được quan tâm củng cố… Có thể điểm qua những thành tựu đạt được về đổi mới chính trị, đó là:
Trong đối ngoại chính trị, Việt Nam đã trở thành thành viên Liên hiệp quốc năm 1976, là thành viên của Cộng đồng chính trị ASEAN năm 1995, Quốc hội Việt Nam là thành viên Liên minh Nghị viện (IPA)… Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, có quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước, đối tác toàn diện với 10 nước với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định [7]. Hệ thống chính trị trong nước ngày càng đổi mới theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Cải cách hành chính đạt được những kết quả tích cực, thực hiện cơ chế công khai, minh bạch; công nghệ hóa và đơn giản hóa trong giải quyết các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp. Chế độ chính trị thể hiện tính dân chủ cao, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đảm bảo quyền bình đẳng cho mỗi người dân. Công cuộc phòng, chống tham nhũng lãng phí tiến hành quyết liệt, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm và công khai các vụ án tham nhũng…
Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng, Việt Nam đã mở rộng và củng cố quan hệ với 80 nước và nhiều tổ chức quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn, như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản [8]. Hợp tác đa phương được mở rộng từng bước. Việt Nam đã tham gia một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là các cơ chế cấp khu vực như Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị những người đứng đầu cơ quan an ninh các nước ASEAN (MACOSA), Tổ chức Hình sự Quốc tế (INTERPOL), Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC), Hiệp hội Cảnh sát các quốc gia Đông Nam Á (ASEANPOL)... và tăng cường hợp tác quốc phòng, an ninh trên phạm vi toàn cầu, bước đầu tham gia có hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng lên, có khả năng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống. Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực, kiên trì cùng với ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Giữ vững lập trường, kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng được thúc đẩy mạnh mẽ với nhiều hình thức, theo lộ trình từ thấp tới cao, hướng tới tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế của nền kinh tế và thị trường toàn cầu. Việt Nam từng bước mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với nền kinh tế và thị trường khu vực, thế giới thông qua thiết lập các mối quan hệ song phương về thương mại, đầu tư, tài chính và tham gia vào các thể chế đa phương trong những lĩnh vực này. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của tất cả các tổ chức quốc tế lớn; đã tham gia, ký kết, và đàm phán tổng cộng 15 hiệp định thương mại tự do (FTA). Xét về số lượng FTA, Việt Nam hiện ở tốp giữa so với các thành viên ASEAN khác. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế của đất nước, giúp mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm; tạo động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam thông qua sự tham gia bình đẳng vào các cơ chế, diễn đàn kinh tế khu vực và quốc tế, bước đầu góp phần xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, và vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để bảo vệ lợi ích doanh nghiệp và nâng cao vị thế đàm phán của Việt Nam.
Về lĩnh vực văn hóa - xã hội, cũng thu được nhiều thành tựu to lớn. Nhờ quá trình HNQT mà các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, khoa học công nghệ… ngày càng phát triển, tiệm cận với trình độ văn minh, hiện đại của thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của nhiều tổ chức văn hóa - xã hội thế giới như: ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA, UPU, WHO, UNICEF, UNESCO... An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống ngày càng cao.Năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 4,5%, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,3%, tuổi thọ trung bình tăng đạt 73,3 tuổi [9]… Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, do vậy, càng củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ chính trị và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.
b. Những hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, mặc dù chủ trương quan điểm đổi mới toàn diện hệ thống chính trị nhưng hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Năng lực xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách chưa cao, còn chậm, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn, thậm chí còn chồng chéo mâu thuẫn nhau. Việt Nam tham gia nhiều tổ chức chính trị trên thế giới nhưng vẫn chưa thể hiện được quan điểm, vai trò và dấu ấn quyền lực của mình. Nước ta vẫn còn lúng túng trong việc tận dụng các mối liên kết, hợp tác chính trị quốc tế để xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước, đổi mới cơ chế, bộ máy, hệ thống chính trị trong tình hình mới. Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra, còn để lại nhiều hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa kịp thời còn kéo dài, gây bức xúc trong dư luận…
Thứ hai, tiềm lực quốc phòng - an ninh còn thiếu và yếu, do đó khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Phân bố ngân sách dành cho quốc phòng - an ninh còn ít. Nhà nước chưa có chính sách để phát triển mạnh nền công nghiệp quốc phòng. Hội nhập quốc phòng - an ninh còn mang nặng tính tham dự và gia nhập hình thức, chưa thể hiện rõ vai trò tham gia quân sự vào các hoạt động chung với các nước khác trong việc gìn giữ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, trong bối cảnh tình hình chính trị hòa bình, ổn định, HNQT sâu rộng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nhưng nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng còn chậm và chưa thực sự bền vững. Theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt được. Năng lực cạnh tranh quốc gia còn yếu về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ. Việt Nam chưa phát huy được thế chủ động trong HNQT nên không khai thác được hết những thuận lợi và thời cơ từ HNQT đem lại để phát triển kinh tế xã hội trong nước. Vì vậy các yếu tố như thị trường, vốn, khoa học công nghệ còn thiếu và yếu. Mặt khác, các chỉ văn hóa - xã hội như GDP bình quân đầu người, tỷ lệ đô thị hóa, chỉ số phát triển con người HDI còn thấp, chỉ số bất bình đẳng xã hội còn cao…
3. Một số kiến nghị đề xuất nhằm đẩy mạnh mối liên kết giữa hợp tác quốc tế đối với đổi mới chính trị
Giữa HNQT với đổi mới chính trị là mối quan hệ biện chứng không tách rời nhau, cộng hưởng lẫn nhau. Nhân tố này là điều kiện, là tiền đề để nhân tố kia phát triển và ngược lại. Vì vậy muốn tăng được tính hiệu quả trong tương tác giữa hai nhân tố này cần thực hiện những tốt những vấn đề sau:
Một là, cần đẩy mạnh mối liên kết giữa HNQT với đổi mới chính trị bằng cách tăng sức ảnh hưởng, tác động của HNQT đối với quá trình đổi mới chính trị. Khai thác tối đa những cơ hội thuận lợi từ HNQT để tiến hành đổi mới chính trị đồng bộ và hiệu quả.
Hai là, quán triệt đổi mới toàn diện hệ thống chính trị, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, thiết lập và xây dựng mọi cơ chế thuận lợi nhất để quá trình HNQT ngày càng sâu rộng, phát huy được những lợi thế từ HNQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Ba là, có những thay đổi cơ chế HNQT theo hướng chủ động, thể hiện vai trò tham gia tích cực, đưa các quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại và HNQT. Triển khai đồng bộ hoạt động HNQT trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa xã hội nhằm giữ vững môi trường hoà bình, ổn định về chính trị; thông thóang, thuận lợi về kinh tế; an toàn, an ninh về chủ quyền quốc gia và bảo đảm chất lượng đời sống văn hóa - xã hội.
Bốn là, cần thực hiện hiệu quả các cam kết, hiệp định trong hợp tác quốc tế để nâng cao uy tín và tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên thế giới. Nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, chủ quyền lãnh thổ và trình độ phát triển văn hóa xã hội của Việt Nam với các nước khác. Tăng cường tình hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, bình đẳng và cùng có lợi
Chú thích:
1. Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, 2007, tr22.
2,3,4,5. Phạm Quốc Trụ, Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 2 (85), 2011.
6. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
7,8. Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr238-239.