NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
ThS. PHẠM THỊ THÙY
- Đại học Điện lực
Đổi mới chính trị (ĐMCT) là một quá trình đi liền với đổi mới và phát triển kinh tế. Đổi mới kinh tế diễn ra càng mạnh mẽ thì yêu cầu đổi mới chính trị càng trở nên cấp thiết. Bởi vì, theo như Lê-nin thì chính trị là việc tham gia vào các công việc của Nhà nước. Quan điểm của Đảng về đổi mới chính trị đã được thể hiện ở các Văn kiện của các đại hội đại biểu Đảng toàn quốc từ năm 1986 đến nay, từ Đại hội lần thứ VI đến đại hội lần thứ XII. Trong quá trình này, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc về ĐMCT và trên cơ sở đó, công cuộc ĐMCT cũng được hiện thực hóa một cách cụ thể và đạt được nhiều kết quả to lớn.
- Đổi mới chính trị là tất yếu khách quan của thời đại
Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã chỉ ra tính tất yếu của việc phải ĐMCT vì đường lối chính trị, hệ thống chính trị trong giai đoạn này đang gặp nhiều bế tắc, yếu kém. Đồng thời bối cảnh chính trị thế giới cũng có nhiều biến động và xáo trộn phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô có nguy cơ sụp đổ. Sự trỗi dậy quyền lực của các cường quốc tư bản đe dọa nền hòa bình thế giới… Đứng trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 18 tháng 12 năm 1986 đã xác định phải giữ vững ổn định chính trị, phải thực hiện theo nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm quyền công dân, chống tệ quan liêu cửa quyền ức hiếp quần chúng trong bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp. Đặc biệt, khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở thành một nguyên tắc trong việc thực hiện những công việc có liên quan tới quần chúng nhân dân. Việc “nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được đặt ra nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Vấn đề chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh gọn, có đủ năng lực thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhà nước; quản lý và điều hành có hiệu quả các hoạt động kinh tế; xã hội; giữ vững pháp luật, kỷ cương và trật tự, an toàn xã hội”1 cũng được đặt ra một cách cụ thể.
Đại hội VI chính là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, đánh dấu bước ngoặt đổi mới đầu tiên ở nước ta. Tuy vậy, tư duy ĐMCT trong Đại hội lần này còn bó hẹp, thụ động, chưa thật linh hoạt và sáng tạo trong quan niệm về xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội Đảng VII diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc; sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu dẫn tới nguy cơ thất bại của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại do chủ nghĩa tư bản phát động diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau tham gia. Quá trình quốc tế hoá sâu sắc đã ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Ngày 27-6-1991, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Đảng ta xác định con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là con đường đúng đắn mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn, mặc dù xuất phát điểm từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp, đất nước lại trải qua hàng mấy chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại. Vì vậy, Trung ương Đảng xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài và trải qua nhiều chặng đường nhưng không vì thế mà không dám thực hiện. Đảng ta kiên định xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là xã hội: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”2.
Mục tiêu chính trị trong giai đoạn này là thông qua đổi mới toàn diện thể chế chính trị và hệ thống chính trị tiến tới hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Đồng thời nhà nước phải có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Khẳng định nhà nước Việt Nam thống nhất bởi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, và có sự phân công rành mạch giữa ba quyền đó.
Như vậy việc xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản đánh dấu bước đột phá mạnh mẽ trong quá trình ĐMCT của Đảng ta. Nếu như ở Đại hội VI Đảng ta vẫn có sự dè dặt trong đường lối đổi mới chính trị thì ở Đại hội VII đã có những quan niệm về đổi mới thể chế chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị sâu sắc hơn, đầy đủ và toàn diện hơn. Trong đó việc đổi mới cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước trong điều hành quản lý đã làm vai trò, trách nhiệm của nhà nước và ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại những vướng mắc chưa được giải quyết triệt để.
- Từng bước cụ thể hoá đường lối ĐMCT xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Bước sang Đại hội VIII, nước ta đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng và phát triển đất nước, giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền, bảo vệ môi trường hoà bình, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố. Hiến pháp mới được ban hành nǎm 1992. Nền hành chính Nhà nước được tiến hành cải cách một bước. Nhà nước pháp quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên việc thực hiện quy chế dân chủ còn nhiều bất cập, hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm trong quản lý điều hành xã hội. Vấn đề tham nhũng ngày càng nổi cộm và diễn biến phức tạp.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm và tiếp tục hoàn thiện đường lối ĐMCT. Đảng ta xác định, đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị phải thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, không nôn nóng vội vã để xảy ra sai lầm lớn. Trong đó xác định cải cách nền hành chính là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các phương diện: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngữ cán bộ, công chức hành chính. Đặc biệt Đại hội lần này chú trọng vào đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. “Tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tệ tham nhũng trong bộ máy nhà nước, trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngǎn chặn, đẩy lùi và loại trừ tệ tham nhũng”3. Như vậy ở Đại hội VIII, Đảng đã cho thấy những bước đi cụ thể trong chiến lược ĐMCT. Đó là kết quả của việc nhận thức đúng được những yêu cầu tất yếu khách quan của thời đại và của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những đổi mới này đã khắc phục yếu kém, xóa bỏ những cái không phù hợp, những trở ngại của quá trình phát triển và chủ động tiếp cận, nắm bắt xu thế mới để đưa đất nước có những chuyển biến mạnh mẽ hơn.
Những quan điểm đó tiếp tục được Đại hội IX phát triển mở rộng và cụ thể hóa thêm. Trong đại hội IX, quan điểm chỉ đạo thống nhất của Đảng về ĐMCT là đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ trước hết là hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, tập trung trước hết vào xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới thể chế trong từng năm. Tiếp đó là kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ nhân dân, trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, việc “tách hệ thống cơ quan hành chính công quyền với hệ thống cơ quan sự nghiệp, áp dụng các cơ chế tài chính thích hợp. Phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi”4 rất được chú trọng.
Mặt khác, việc nâng cao vai trò quản lý của nhà nước không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đối với Nhà nước. Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những chính sách cụ thể trong ĐMCT tại Đại hội IX đã thể hiện tư duy sáng tạo, chủ động và hoạt động hiệu quả của Đảng. Thể chế và hệ thống chính trị ngày càng bám sát thực tiễn đời sống, thể hiện quyền lực nhân dân. Bộ máy chính trị công khai minh bạch, dân chủ và kiên quyết đẩy lùi tham nhũng, phá hoại chính trị.
Tiếp đến Đại hội X, tình hình nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn của thời đại, đan xen nhau, tác động tổng hợp, diễn biến phức tạp và có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ngày càng nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, hòng làm thay đổi chế độ chính trị. Bối cảnh đó đòi hỏi toàn Đảng toàn dân ta phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, phát triển nhanh và bền vững hơn. Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 đã đánh dấu bước ngoặt mới trong tư duy ĐMCT của Đảng. Đường lối đổi mới ngày càng mở rộng theo chiều sâu, đi vào hiệu quả thực hiện, các chính sách được cụ thể hóa, phản ánh nhãn quan chính trị sâu rộng của Đảng. Thể chế chính trị được xây dựng hoàn thiện để thực hiện đầy đủ nguyên tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, “đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả bốn mặt: chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ và phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hoá nền hành chính nhà nước”5.
Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch. Thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Triển khai thực hiện đồng bộ Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Hình thành Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương. Đặc biệt lần đầu tiên trong đại hội X đã thẳng thắn nhìn nhận khuyết điểm và đưa ra báo cáo kiểm điểm nội dung lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Một lần nữa chứng tỏ quyết tâm đổi mới mạnh mẽ dám làm dám chịu của Đảng ta. Những chỉ đạo ĐMCT trong Đại hội X đã đạt được bước phát triển cả về chất và lượng. Sức mạnh của hệ thống chính trị, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã tạo ra nhiều thay đổi về diện mạo đất nước. Thế và lực của nước ta được củng cố vững chắc, vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên tầm cao mới.
- Tiến hành công cuộc ĐMCT đồng bộ và toàn diện
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Do vậy, tại đại hội XI, đường lối ĐMCT tiếp tục có những bổ sung và phát triển mới. Đảng ta xác định quan điểm đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. “Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. ĐMCT phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”6.
Mặt khác, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường. Đồng thời, tiếp tục kiện toàn bộ máy Chính phủ, nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô, nhất là chất lượng xây dựng thể chế, quy hoạch, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước các cấp. Công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Coi trọng mở rộng dân chủ trực tiếp trong xây dựng Đảng và xây dựng chính quyền, khắc phục tình trạng Đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm thay chức năng, nhiệm vụ quản lý điều hành của chính quyền. Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Đặc biệt, bước chuyển biến mới trong chỉnh đốn Đảng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã quán triệt thực hiện tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái để giữ gìn Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh.
Đại hội XI đã thể hiện bước chuyển biến mạnh mẽ trong ĐMCT, đổi mới diễn ra toàn diện và đồng bộ hơn, hệ thống chính trị thẳng thắn nhìn nhận khuyết điểm, hạn chế trong quá trình thực hiện đổi mới. Tổng kết 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém trong quá trình đổi mới, làm cho kế hoạch đổi mới chưa thành công như mong đợi.
Vì vậy, Đại hội XII xác định mục tiêu đổi mới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, chú trọng đặc biệt nguyên tắc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đưa ra các nhiệm vụ trọng tâm trong ĐMCT bao gồm: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”7.
Đại hội cũng đưa ra những nhóm giải pháp cụ thể, đồng bộ nhằm thúc đẩy quá trình ĐMCT đi vào thực chất và hiệu quả: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ tốt nhất người dân và doanh nghiệp. Khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - côngnghệ, văn hóa, nghệ thuật... Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, gắn với nâng cao chất lượng chính sách, pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cung cấp dịch vụ công và thực hiện chính phủ điện tử. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật”8.
Đảng ta xác định, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá. Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền lương. Đánh giá cán bộ, công chức phải trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ. Người đứng đầu cơ quan trong bộ máy nhà nước phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải được trao quyền quyết định tương ứng về tổ chức, cán bộ. Có chế tài xử lý thích đáng những cán bộ vi phạm pháp luật, nhất là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng, chống tham nhũng. Đề cao, quy định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng và người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Có cơ chế, chính sách hữu hiệu để khuyến khích, khen thưởng và bảo vệ an toàn cho người phát hiện, tố cáo tham nhũng. Nghiêm trị những hành vi lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, tố cáo sai sự thật. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng…
Có thể nhận thấy, tại Đại hội XII, Đảng ta đã thể hiện được năng lực tư duy chính trị đổi mới, sáng tạo, bám sát thực tiễn đời sống, có tầm nhìn chiến lược với thời đại mới, tự chỉnh đốn, giải quyết triệt để những yếu kém hạn chế trong nội bộ Đảng, kiên quyết giữ vững lập trường chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và bảo toàn thành quả cách mạng. Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, tự cường và phát triển toàn diện.
- Một số tồn tại và kiến nghị
Thực tiễn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu phát triển to lớn, đất nước lớn mạnh không ngừng, mọi mặt của đời sống xã hội phát triển nhanh chóng. Có được những kết quả trên là nhờ quá trình ĐMCT sâu rộng và đường lối chỉ đạo sáng suốt, hiệu quả của Đảng. Tuy nhiên quá trình nhận thức cũng như thực hiện ĐMCT ở nước ta vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiến hành ĐMCT còn chậm so với đổi mới kinh tế, chưa thực sự đồng bộ với đổi mới kinh tế, thậm chí còn gây trở ngại, rào cản đổi với quá trình phát triển kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Trong khi nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện về thể chế, đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống nhân dân đồng thời bắt kịp xu thế phát triển của thế giới thì thể chế chính trị, hệ thống chính trị chưa có bước đột phá trong chỉ đạo và hành động cụ thể. Các khâu đổi mới còn mang nặng hình thức, lý thuyết. Chính vì vậy, sau hơn 30 năm đổi mới, mặc dù đảm bảo nền chính trị ổn định, hoà bình nhưng bộ máy chính trị của nước ta không những không được tinh gọn và hiện đại hoá thì ngày càng phình to, cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, lãng phí nhân lực, tài lực của đất nước.
Thứ hai, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức quản lý của Nhà nước trong hệ thống chính trị còn chậm, chưa nhất quán, nói chưa đi đôi với làm, thực hiện chưa hiệu quả. Quan điểm chỉ đạo đường lối ĐMCT của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt nhưng khi triển khai thực hiện còn nhiều lúng túng, quan điểm đổi mới còn chung chung, chưa đi sâu vào từng vấn đề, nhiệm vụ cụ thể. Do đó, có thể nhận thấy, từ Đại hội VI đến Đại hội XII Đảng ta vẫn loay hoay trong quan điểm ĐMCT, chưa thực sự đột phá, các vấn đề đổi mới vẫn lặp lại từ Đại hội này sang Đại hội khác. Bên cạnh đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng là vậy nhưng hoạt động quản lý của Nhà nước nhiều khi thực hiện chưa đúng, đi ngược lại, một bộ phận cán bộ đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân, có tư tưởng sai lệch, thoái hoá biến chất gây nên những hậu quả xấu, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Đồng thời, quản lý Nhà nước yếu kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng trong hệ thống chính trị, thậm chí diễn biến phức tạp, khó kiểm soát.
Thứ ba, số lượng cán bộ công chức viên chức trong hệ thống chính trị đông nhưng chất lượng chưa tương xứng, làm việc kém hiệu quả. Đó chính là hệ quả của việc chạy chức chạy quyền, chế độ con ông cháu cha, cán bộ không có năng lực nhưng vẫn được cất nhắc, chế độ tuyển dụng còn mang tính hình thức, tuyển dụng tràn lan… Quan điểm ĐMCT của Đảng đã nhận thức được vấn đề này, phương châm chỉ đạo là tinh gọn bộ máy nhưng khi thực hiện thì không quyết liệt, không dứt điểm, mới dừng lại ở lộ trình tinh giảm biên chế mà chưa có kế hoạch cụ thể, dẫn đến tình trạng hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương hoạt động chồng chéo, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Thứ tư, quan điểm ĐMCT chưa thật sự phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Chưa tạo được sự đồng thuận nhất trí cao trong xã hội khiến cho việc triển khai các quan điểm chỉ đạo của Đảng còn nhiều vướng mắc, chậm đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, tư duy chủ quan duy ý chí vẫn tồn tại nên nhiều khi các quan điểm, đường lối đưa ra thiếu tính khả thi, vì chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện…
Chắc chắn xu thế biến đổi của thời đại lịch sử còn diễn tiến phức tạp, khôn lường nhưng với tinh thần kiên định, dám nghĩ dám làm, sáng tạo, chủ động thì Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực, quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp ĐMCT bằng những giải pháp sau:
Một là, thay đổi tư duy về ĐMCT theo chiều sâu, cụ thể hoá các quan điểm, đường lối ĐMCT bằng những khẩu hiệu chính trị, triết lí chính trị phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Vấn đề này chúng ta có thể học tập một số nước lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Hai là, khắc phục những hạn chế của hệ thống chính trị bằng cách tiếp tục đổi mới bộ máy chính trị theo hướng tinh gọn, thanh lọc, tinh giản biên chế đối với đội ngũ cán bộ yếu kém về năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý của Đảng và Nhà nước. Gắn nhiệm vụ, quyền hạn cho từng bộ phận, đơn vị và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm cao nhất.
Ba là, kiên quyết đấu tranh triệt để tình trạng tham nhũng hiện nay. Có chế tài xử lý nghiêm minh, không bao che, dung túng cho tội phạm tham nhũng. Lấy lại niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Bốn là, xây dựng một chế độ chính trị dân chủ, nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao quyền dân chủ của nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị, hoà bình, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của thế giới
Năm là, quan điểm ĐMCT phải toàn diện, đồng bộ và thống nhất trong chỉ đạo cũng như thực hiện. ĐMCT bao gồm đổi mới cả đối nội và đối ngoại nhằm chủ động, thích ứng tốt với biến chuyển của thời đại và nâng cao vị thế chính trị của nước ta trên trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1, 2, 3, 4, 5, 6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI. http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dai-hoi.
7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr 309-310, 432.