PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

ThS. Phạm Thị Thuỳ

 

Mọi quá trình phát triển kinh tế đều tất yếu dẫn đến những những biến đổi về chính trị. Đó là quy luật phát triển của mọi hình thái kinh tế xã hội. Ngày nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,  sớm hay muộn, tất yếu cũng phải đổi mới chính trị. Đó là sự “đổi mới để có chủ nghĩa xã hội hơn”, là cơ hội lớn để Việt Nam hiện thực hoá mục tiêu CNXH và con đường đi lên CNXH. Tuy nhiên, lý luận về đổi mới chính trị ở nước ta đến nay vẫn chưa có sự nhận thức nhất quán về nhiều nội dung cụ thể. Những khoa học như triết học, chính trị học vẫn còn những quan niệm khác nhau do cách tiếp cận của mỗi khoa học khác nhau. Từ đó, việc vận dụng vào thực tiễn đổi mới còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết, để vượt qua những thách thức, khó khăn phải đối mặt. Bài viết nhằm góp phần vào việc trao đổi một số nội dung liên quan đến vấn đề này.

Từ khoá: Lý luận, đổi mới chính trị, tư duy chính trị, hệ thống chính trị, chủ nghĩa xã hội.

  1. Đặt vấn đề

Ở Việt Nam, từ trước tới nay, “đổi mới chính trị” thường được hiểu là một thuật ngữ trong chính trị học. Vì vậy, chưa khi nào khái niệm này được luận giải một cách chi tiết và thấu đáo với tư cách là một khái niệm khoa học. Bởi lẽ, chính trị là lĩnh vực rộng lớn và đổi mới chính trị là thuật ngữ phức hợp, liên quan đến nhiều yếu tố phức tạp, đụng chạm tới nhiều mối quan hệ nhạy cảm nên nội hàm của nó vẫn đang được bổ sung, hoàn thiện dần. Bên cạnh đó, mặc dù công cuộc đổi mới chính trị ở nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, tuy nhiên cũng đặt ra không ít những khó khăn, vấn đề phức tạp cần phải giải quyết kịp thời. Do đó yêu cầu quan trọng đặt ra với nước ta hiện nay là xác định cho đúng quan điểm, tư tưởng đổi mới chính trị cũng như phân tích cụ thể những vấn đề đặt ra trong đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay, có như vậy quá trình đổi mới chính trị mới có thể thực hiện thành công.

  1. Khái niệm đổi mới chính trị

Cho đến nay, quan điểm đổi mới chính trị chỉ được nêu lên một cách rõ ràng nhất trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và đó cũng là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng khái niệm khoa học về đổi mới chính trị. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới chính trị trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH đã được cụ thể hoá ở các văn kiện của Đảng. Từ đó có thể hiểu đổi mới chính trị là quá trình đổi mới, phát triển, hoàn thiện một cách toàn diện từ ý thức chính trị đến các thiết chế chính trị trong đó đổi mới nhận thức về mô hình CNXH ở Việt Nam và con đường đi lên CNXH Việt Nam có tầm quan trọng hàng đầu, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là cốt lõi và xây dựng Đảng Cộng sản Công sản Việt Nam là then chốt. Đây là quá trình bao hàm cả việc điều chỉnh lại những sự nhận thức chưa đúng, làm rõ những gì chưa rõ về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, sửa chữa những gì làm chưa tốt, hoàn thiện những gì chưa hoàn thiện để tạo mọi điều kiện phát triển đất nước ngày càng bền vững trong quá trình đi theo định hướng XHCN.

Quan điểm về việc nhận thức trong thời kỳ đổi mới đã được thể hiện ở sáu nguyên tắc cơ bản trong thực hiện triển khai công cuộc đổi mới từ Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) ngày 29 tháng 3 năm 1989 như sau:

- “Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin.

- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.

- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng đảng.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.

- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”[1, tr125-126].

Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một lần nữa khẳng định: “Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia”[2].

Tuy nhiên, muốn tiến hành được đổi mới chính trị thì yêu cầu tiên quyết là phải giữ vững được ổn định chính trị. Ổn định chính trị là điều kiện sống còn để một quốc gia giữ vững được độc lập chủ quyền. Ổn định chính trị chính là điều kiện cần để quá trình đổi mới chính trị diễn ra thuận lợi và thành công. Chính trị có ổn định thì mới thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển và làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định chính trị cũng góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tốt hơn. Tất nhiên, ổn định không có nghĩa là không đấu tranh kiên quyết với các hiện tượng suy thoái, biến chất của cán bộ, đảng viên và không đấu tranh quyết liệt với các biểu hiện tiêu cực trong toàn xã hội.

Đổi mới chính trị có mục tiêu lý luận và mục tiêu thực tiễn. Về lý luận, đổi mới chính trị nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về thực tiễn, đổi mới chính trị là quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị, đặc biệt là quá trình chỉnh đốn xây dựng Đảng làm cho Đảng ngày càng trong sạch và vững mạnh đông thời không ngững hòan thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc quản lý điều hành mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, từng bước xác lập những cơ sở vững chắc cho việc xây dựng xã hội XHCN. Hai mục tiêu đó có quan hệ biện chứng với nhau, mục tiêu lý luận phục vụ cho mục tiêu thực tiễn; mục tiêu thực tiễn vừa là sự hiện thực hóa các mục tiêu lý luận, kiểm tra thành quả đạt được của mục tiêu lý luận vừa đặt ra những yêu cầu mới đối với việc hoàn thiện và phát triển lý luận. Trong sự tác động qua lại đó, mục tiêu thực tiễn là mục tiêu cao nhất cần phải đạt được. Từ đó phải thực hiện đúng một quan điểm nhất quán ta “đổi mới” nhưng không “đổi mầu”. Đổi mới chính trị chứ không thay đôi chế độ chính trị, không từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới chính trị không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là làm cho lý luận đó, tư tưởng đó được nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại kết quả thiết thực hơn. Đổi mới chính trị không phải là phủ định sạch trơn nhận thức và cách làm trước đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nghĩ đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ, lấy đó làm tiền đề để đổi mới, để tiến lên; đồng thời loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai và cả những hậu quả do những sai sót đó tạo ra. Cho nên, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới chính trị là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, giúp chúng ta tránh những sai lầm hữu khuynh cũng như tả khuynh, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng hiệu quả hơn. Đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình phủ định biện chứng, vừa kế thừa vừa lọc bỏ nhưng trong đó sự kế thừa là một yếu tố có tính căn bản. Kế thừa không chỉ những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam mà còn kế thừa những thành tựu của nhân loại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của lý luận chính trị cũng như của thực tiễn chính trị.

Quá trình đổi mới chính trị ở Việt Nam mang thông điệp phát triển toàn diện đất nước con người Việt Nam ngày càng hiện đại hơn, to đẹp hơn, đàng hoàng hơn như nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, đổi mới chính trị phải thực hiện quyết liệt đến cùng, thận trọng, tránh tình trạng nóng vội, bắt chước làm theo dễ dẫn đến sai lầm và thất bại. Đổi mới chính trị là một quá trình lâu dài, diễn ra liên tục, xuyên suốt và không xác định thời gian kết thúc. Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân [3, tr 69-70].

Tóm lại, quan niệm của Đảng ta về đổi mới chính trị được hiểu là sự đổi mới từ tư duy chính trị về CNXH và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.  

Trên cơ sở những quan điểm của Đảng về đổi mới chính trị cũng như quan điểm của hầu hết các học giả nghiên cứu về đổi mới chính trị, tác giả cho rằng có thể hiểu: Đổi mới chính trị là đổi mới ý thức chính trị và thiết chế chính trị trong đó cốt yếu nhất là đổi mới tư duy chính trị và hệ thống chính trị hiện hành. Đổi mới tư duy chính trị phản ánh sự đổi mới của nhận thức chính trị, tư tưởng chính trị; còn đổi mới hệ thống chính trị phản ánh sự đổi mới của thực tiễn chính trị.

Đổi mới tư duy chính trị ở nước ta là đổi mới tư duy nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH. Thực chất là thay đổi cách nghĩ, cách làm về xây dựng chủ nghĩa xã hội và mô hình xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đó là sự nhận thức lại về CNXH ở Việt Nam trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta và trong tình hình mới của thế giới hiện đại. Đó là sự từ khắc phục những hạn chế về quan niệm CNXH không phù hợp với thực tế khách quan cụ thể là thực tế của Việt Nam chứ không phải từ bỏ mục tiêu CNXH mà nhân dân ta, đảng ta và Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đây là việc kế thừa, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về CNXH khoa học; là sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH gắn với hệ giá trị độc lập – tự do – hạnh phúc; là việc rút ra bài học kinh nghiệm xương máu trong Cải tổ ở Liên Xô và thành tựu Cải cách ở Trung Quốc. Đó cũng là kết quả việc đánh giá đúng về xu thế thời đại, về sự biến đổi của thời cuộc hiện nay - điều kiện quan trọng để Đảng không phạm sai lầm về tư tưởng chính trị, phương hướng chính trị và có được tầm nhìn chính trị mới.

Bên cạnh đó đổi mới là phát triển, bổ sung, hình thành những nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH sao cho phù hợp với quy luật, thuận lòng dân và hợp thời đại; tạo ra sức mạnh tổng hợp của khoa học, dân chủ và văn hoá, thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội, của hệ thống chính trị, thể hiện sức mạnh của chủ thể nhân dân và quyền lực nhân dân do Đảng lãnh đạo và nhà nước quản lý; là làm sáng tỏ hơn mục tiêu, mô hình và bản chất của chế độ XHCN và làm sáng tỏ những vấn đề của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.

Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nhằm đảm bảo thực hiện tốt nền dân chủ XHCN; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước tiến tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mục đích của đổi mới hệ thống chính trị không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà là làm cho chế độ chính trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng bền vững hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất XHCN của nó, phát huy tính ưu việt và vai trò tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới hệ thống chính trị là nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, thiết lập kỷ cương, nguyên tắc công vụ, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực… trên cơ sở xác định rõ, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đổi mới hệ thống chính trị cũng là việc từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ XHCN, đảm bảo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; củng cố niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và của nhà nước Việt Nam hiện nay.

  1. Một số vấn đề đặt ra trong đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay

Quá trình đổi mới chính trị ở nước ta bên cạnh những kết quả đạt được còn gặp phải một số vấn đề khó khăn, phức tạp sau đây:

Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới chính trị trong điều kiện hiện nay phải được định hướng một cách rõ ràng với việc nhiều vấn đề lý luận đến nay vẫn chưa thật sáng tỏ. Theo Lênin, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Tất nhiên lý luận này phải là lý luận khoa học. Do đó đặt ra yêu cầu, không có lý luận thực sự khoa học về đổi mới chính trị thì không thể thực hiện đổi mới chính trị một cách hiệu quả. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy những bài học quý giá về vấn đề này. Tuy nhiên đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được một hệ thống lý luận khả dĩ đáp ứng những đòi hỏi cấp bách nhất của thực tiễn, bao gồm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH thời kỳ hội nhập và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị cũng như đối với toàn xã hội; vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ vẫn là những vấn đề chưa giải thích thuyết phục. Trong một số cán bộ vẫn chỉ tiếp thu một cách hời hợt, nông cạn những vấn đề lý luận trên đây chứ chưa thật thấm nhuần các quan điểm có tính then chốt này. Vì vậy, chưa có sự gắn kết lời nói đi đôi với việc làm, chưa có sự thống nhất cao giữa Trung ương và địa phương, giữa những cán bộ chủ chốt và cán bộ dưới quyền; vẫn còn tình trạng trên nóng dưới lạnh. Điều đó đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành và gây không ít khó khăn cho quá trình đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.

Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới chính trị đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị theo hướng hiện đại, công khai minh bạch, có trách nhiệm giải trình, nhanh chóng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của thực tiễn với việc cơ cấu bộ máy tổ chức chính trị hiện nay còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Có thể thấy, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là sản phẩm lâu dài của thời kỳ quan liêu bao cấp trước đây. Từ khi đổi mới đến nay, mặc dù đã có nhiều đổi mới quan trọng trong hệ thống chính trị, nhưng theo kết quả nghiên cứu của tác giả, tất cả các lần giảm biên chế đều dẫn tới nghịch lý làm tăng thêm biên chế trong hệ thống chính trị. Nguyên nhân là do nhiều cơ quan nhà nước đã “khắc phục giảm biên” bằng cách hình thành thêm các đơn vị, cơ quan mới, vì vậy vừa có thể sử dụng hết số cán bộ cũ lại còn bổ sung được thêm các biên chế mới. Kết quả là bộ máy chính trị cứ ngày càng phình to, khó kiểm soát tổ chức.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, đặc biệt là của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, vấn đề tinh gọn bộ máy, giảm biên chế nhất là biên chế cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay có giảm, song nhiều người vẫn chưa thực sự đồng tình với chủ trương này với suy nghĩ nếu tinh gọn bộ máy sẽ làm tăng khối lượng công việc, trong khi số lượng cán bộ ít thì liệu có thể đảm đương được hết, làm được xuể không? Phải chăng cách làm việc không cần hết công suất đã trở thành một thói quen phổ biến trong tư tưởng những cán bộ thuộc biên chế nhà nước trước đây và tâm lý khi đã được biên chế thì có thể hoàn toàn yên trí không bị mất việc, không làm cũng có hưởng hay tâm lý làm chơi ăn thật... Vì vậy vấn đề đặt ra là thay đổi được những tư tưởng này không phải dễ dàng và đòi hỏi cần có những đổi mới căn bản từ tư duy nhận thức đến những hành động quyết liệt trong sắp xếp tổ chức.

Ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải xây dựng một bộ máy chính trị trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ với tình trạng một bộ phận cán bộ không nhỏ hiện nay còn tư tưởng quan liêu, vụ lợi cá nhân, tham nhũng tiêu cực. Đây là biểu hiện của quan niệm “có quyền thì phải có lợi mà không nghĩ đến trách nhiệm”, cách làm việc “quan liêu, mệnh lệnh, hình thức” đã ăn sâu bén rễ trong tư duy của không ít cán bộ từ Trung ương đến địa phương, nhất là ở các cấp chính quyền địa phương. Những hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy việc đã làm hỏng nhiều cán bộ ngay từ khi được tuyển vào biên chế. Từ đó các tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng ngày một lan rộng. Đồng thời, vẫn còn một số đội ngũ cán bộ có tư tưởng của người sản xuất nhỏ, tư tưởng phong kiến, bảo thủ, ngại thay đổi. Tất cả những tư tưởng hạn chế này làm cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ công quyền phù hợp với yêu cầu của thời đại ngày càng trở nên khó khăn. Nếu không thanh lọc hay ít nhất là không cải tạo được những cán bộ này thì mọi biện pháp chống tham nhũng tiêu cực vẫn chỉ mang tính chất hình thức, không ngặn chặn được mầm mống tham nhũng ngay từ trong tư tưởng.

Trên đây là một số vấn đề bức xúc, nổi cộm trong quá trình đổi mới chính trị ở nước hiện nay. Nếu không chú trọng giải quyết triệt để các vấn đề này thì toàn bộ những thành quả của đổi mới chính trị và mục tiêu đổi mới chính trị sẽ khó đạt được trọn vẹn.

  1. Kết luận

Việc nhận thức được lý luận căn bản về đổi mới chính trị có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nếu nhận thức lý luận không đúng, không chắc và không vững sẽ dẫn tới thực tiễn sai lầm. Và khi thực hiện đổi mới chính trị thì tất yếu không thể tránh khỏi những khó khăn, phức tạp. Vì vậy việc chỉ ra được một số vấn đề đặt ra trong đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay là rất hữu thiết, không chỉ củng cố nền tảng lý luận mà còn làm sáng tỏ, bổ sung và phát triển lý luận hơn nữa, từ đó thúc đẩy quá trình đổi mới chính trị đi đúng hướng, đúng mục tiêu và đạt thành tựu lớn.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế - xã hội từ Đổi mới (năm 1986) đến nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  2. Ban chấp hành Trung ương (2015), Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Trung ương Đảng, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
  5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.