Phát huy vai trò trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay

Phát huy vai trò trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay

                                                               Th.s Đoàn Nam Chung*

Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng của sự tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngay từ thế kỷ 18, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã tổng kết và đề ra bốn nguyên lý trị nước: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”[1]. Đặc biệt, để nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nguyên lý thứ tư, ông còn nêu ra một khảo dị “Phí trí tắc vong”. Điều đó có nghĩa là: không có trí thức, hiền tài, hoặc không biết sử dụng trí thức, hiền tài, thì chắc chắn là mất nước, chứ không chỉ đơn giản là đất nước không hưng thịnh.

Ba trăm năm sau, trong thời đại mà sự cạnh tranh giữa các quốc gia không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân công giá rẻ, mà cạnh tranh dựa vào sức mạnh của tri thức thì quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Mục tiêu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[2] đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức. Vì thế, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng nêu rõ chủ trương:

          Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến[3].

1. Thực trạng phát huy vai trò trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiến tiến hiện đại để đạt tới năng suất lao động cao trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội.

Những năm qua, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng việc phát triển đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng, đồng thời, phát huy vai trò của đội ngũ này trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, y tế, giáo dục…) và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đội ngũ trí thức không chỉ trực tiếp đề xuất các luận cứ khoa học làm cơ sở cho các quyết sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về con đường, mô hình và bước đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn là lực lượng trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình này.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển xã hội, lịch sử nhân loại nói chung và các lĩnh vực trong đời sống xã hội nói riêng, suy đến cùng, đều bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố có ý nghĩa quan trọng và quyết định nhất, C.Mác đã từng khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”[4]. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”[5]. Với ý nghĩa đó, nếu nguồn lực trí thức không phát triển thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là không thể thực hiện được.

Trí thức là những người có phẩm chất trí tuệ hơn hẳn những người lao động khác. Họ không phải là những cá nhân trừu tượng. Họ là những con người được đào tạo, có phẩm chất trí tuệ, thông minh, một phần do thiên phú, nòi giống, và một phần khác quan trọng, chủ yếu quyết định hơn là nhờ được đào tạo, huấn luyện một cách rất cơ bản, nghiêm túc, thêm nữa, bản thân họ có ý thức say mê, cần mẫn học tập, tìm tòi, sáng tạo. Có thể nói, trí thức là một nhóm xã hội đặc biệt bao gồm những người có trình độ học vấn chuyên môn sâu về một lĩnh vực chuyên môn, có đạo đức chuyên môn nghề nghiệp, luôn có ý thức phấn đấu, cống hiến và sáng tạo không ngừng vì cộng đồng xã hội, vì đất nước. Trí thức là những người đào tạo, huấn luyện cơ bản, nghiêm túc, nâng cao trình độ tay nghề cũng như các thao tác thuộc về kỹ thuật cần thiết của người lao động. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, trí tuệ, tri thức của người lao động là yếu tố có ý nghĩa tiên quyết mang lại sức mạnh ưu trội để cạnh tranh và thắng thế trên thị trường. Sức mạnh tri thức ở mỗi quốc gia sẽ dần dần thay thế cho ưu thế về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân công chủ yếu lao động sản xuất tạo ra của cải bằng thể lực và cơ bắp. Vì vậy, để góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành quốc gia có nền công nghiệp theo hướng hiện đại như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) chủ trương, nguồn lao động ở Việt Nam càng phải là nguồn lao động chất lượng cao, được đào tạo kỹ lưỡng với kỹ năng, kỹ xảo và tinh thông nghề nghiệp; lao động có trách nhiệm, có kỷ luật, tính chuyên nghiệp cao: “Bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động”[6].

Để thực hiện định hướng và mục tiêu trên, đội ngũ trí thức đóng vai trò trực tiếp và có ý nghĩa quyết định. Chính đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức ngành giáo dục là những người trực tiếp đề xuất, góp ý, biên soạn chương trình, nội dung giáo dục các cấp, từ giáo dục phổ thông đến giáo dục trung cấp, cao đẳng và đại học. Có thể nói, chất lượng của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phụ thuộc vào chất lượng của chương trình, nội dung giáo dục các cấp, từ giáo dục cơ bản đến giáo dục chuyên ngành. Hơn thế nữa, đội ngũ trí thức ấy còn trực tiếp truyền đạt, giáo dục cho người học những tri thức quan trọng không thể thiếu về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấ nước. Nếu người truyền đạt, giáo dục thiếu tâm huyết, phương pháp, tri thức khoa học chuyên sâu và tính sáng tạo thì khó có thể có được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Và như vậy, chắc chắn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến bước đi, nhịp độ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên, quá trình đổi mới nói chung và trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, Đảng ta luôn khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[7].

Hàng năm, đội ngũ trí thức đóng vai trò là những chiếc “máy cái” đã đào tạo ra hàng triệu tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, kỹ sư, công nhân lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Họ không ngừng đề xuất và thực hiện nhiều mô hình học tập, nghiên cứu sáng tạo nhằm phát triển tối đa chất lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, họ còn tích cực hợp tác quốc tế về giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 15/12/2014, đã có 204 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam đầu tư vào ngành giáo dục đào tạo, với tổng số vốn đăng ký đạt 825,5 triệu USD[8]. Đặc biệt, ở lĩnh vực đào tạo nghề, nhất là tin học và ngoại ngữ, các dự án đều được triển khai rất nhanh, tạo được uy tín với học viên và góp phần nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực. Nhờ vậy, người lao động có cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu ra nước ngoài, cũng như vào các khu chế xuất, khu công nghiệp và tăng khả năng được đào tạo ở nước ngoài, giúp cho người Việt Nam tiến nhanh hơn trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, trước yêu cầu đặt ra của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ và của nền kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức Việt Nam đang từng bước đa dạng hóa các phương thức tự học tập, nghiên cứu, chủ động tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Trong hoạt động chuyên môn, họ đã bám sát sự phát triển của đất nước và trên cơ sở ý thức rõ vị trí, vai trò của mình họ phải thường xuyên nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực tích lũy kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn công tác. Có vậy, họ mới có thể tiếp thu được những tri thức khoa học tiên tiến, hiện đại của thế giới để giảng dạy cho người học ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. 

Tri thức của nhân loại ngày càng tăng theo cấp số nhân, để tránh tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, đội ngũ trí thức, nhất là trí thức Việt kiều đã tích cực tiếp thu thành tựu mới về phát minh, sáng chế, sáng tạo của các nước. Trong khả năng, điều kiện triển khai còn nhiều hạn chế (tài chính hạn hẹp, phòng thí nghiệm lạc hậu; năng lực triển khai còn nhiều bấp cập) song với sự nỗ lực không ngừng, đội ngũ trí thức Việt Nam đã triển khai thành công nhiều công trình khoa học và công nghệ phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.

Một là, nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua các kênh thông tin khác nhau của báo chí, tuyên truyền, giáo dục - đào tạo… Qua các kênh thông tin đó, thường xuyên giáo dục, phổ biến kiến thức khoa học, những thành tựu mới của khoa học, những phát minh ý nghĩa của khoa học đối với sự phát triển xã hội.

Hai là, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị từ trung ương xuống đến địa phương, nhất là những người trực tiếp làm công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động khoa học, hoạt động giáo dục - đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao v.v… Đội ngũ này không chỉ cần nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về tầm quan trong của khoa học, của đào tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức để từ đó có những chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác tối đa tiềm lực khoa học trong xây dựng và phát triển đất nước.

Ba là, bản thân đội ngũ trí thức khoa học Việt Nam cần thấy rõ hơn trọng trách của mình trước sự nghiệp cách mạng của nhân dân và yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhận thức đó giúp cho quá trình phát huy vai trò của đội ngũ này trở thành quá trình tự giác, tích cực. Chỉ như vậy, thì nội lực của đội ngũ này mới được phát huy đầy đủ. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn trí thức Việt Nam: “Trí thức của ta nên tự động đi bước trước tìm đến công nông và tôi tin chắc rằng sẽ liệt nhiệt hoan nghênh trí thức”[9]. Thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và xã hội về tầm quan trọng của đào tạo bồi dưỡng, trọng dụng đội ngũ trí thức là kinh nghiệm có ý nghĩa xuất phát điểm khởi động để những kinh nghiệm khác được thực hiện tốt hơn nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

Bốn là, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ trí thức phù hợp về vật chất và tinh thần đối với đội ngũ trí thức là những động lực quan trọng để kích thích lao động sáng tạo, cũng như tạo điều kiện cho đội ngũ trí trức tích cực, chủ động nâng cao trình độ, năng lực của bản thân. Đồng thời, việc trọng dụng, đãi ngộ vật chất và tinh thần xứng đáng còn thể hiện ở sự tôn vinh và sự đánh giá công bằng của xã hội đối với họ. Đãi ngộ về vật chất bao gồm: tiền lương, thưởng, phụ cấp và các thu nhập khác (nhuận bút, thù lao giảng dạy, nghiên cứu khoa học…), các phương tiện sinh hoạt và làm việc nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Đãi ngộ về tinh thần bao gồm thỏa mãn nhu cầu được nâng cao trình độ để có bằng cấp cao hơn, việc công nhận các chức danh giảng dạy, khoa học (giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp, phó giáo sư, giáo sư), việc tặng các giải thưởng cao quý, các hình thức khen thưởng thi đua (giấy khen, bằng khen, huân chương v.v…), lao động tiên tiến, chiến sỹ thi đua cho đội ngũ trí thức. Những hình thức đãi ngộ, tôn vinh này thực chất là sự thỏa mãn nhu cầu, lợi ích chính đáng và thiết thực của trí thức. Nhu cầu, lợi ích chính đáng được thực hiện, sẽ là động lực thúc đẩy mạnh mẽ trí thức phát huy tính tích cực, sáng tạo không ngừng nghỉ, qua đó đóng góp lớn hơn cho sự phát triển của xã hội và chính bản thân mỗi trí thức.

Năm là, tạo “đột phá” trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức có vai trò quyết định đến trình độ chuyên môn, năng lực khoa học. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng có trọng tâm, trọng điểm, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, trong đó tập trung phát triển đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học cao trong các lĩnh vực, đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Sáu là, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm phát huy vai trò của đội ngũ này, đảm bảo tính đảng, tính chính trị, tư tưởng trong hoạt động lao động của đội ngũ trí thức. Đây là điều kiện quan trọng nhằm tạo sự thống nhất trong đội ngũ trí thức, đồng thời, đảm bảo sự thành công trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước.

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Quý Đôn tuyển tập (2015), tập 1, tr.235, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.429.

3. C. Mác - Ph. Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 4, tr.257.

4. V. I. Lênin (1977), Toàn tập,  Nxb Tiến bộ, tập 38, tr.430.

5. Cục Đầu tư nước ngoài (2015), Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành GD&ĐT tại Việt Nam, FIA Việt Nam, trang Thông tin điện tử đầu tư nước ngoài, cập nhật ngày 20/01/2015.

6. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8, tr.215.

 

 

 

*  Đại học Điện Lực

[1] Lê Quý Đôn tuyển tập (2015), tập 1, tr.235, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.429.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.161.

[4] C. Mác - Ph. Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 4, tr.257.

[5] V. I. Lênin (1977), Toàn tập,  Nxb Tiến bộ, tập 38, tr.430.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.160.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.114.

[8] Cục Đầu tư nước ngoài (2015), Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành GD&ĐT tại Việt Nam, FIA Việt Nam, trang Thông tin điện tử đầu tư nước ngoài, cập nhật ngày 20/01/2015.

[9] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8, tr.215.